I. TỪ QUỐC DÂN ĐẠI HỘI TÂN TRÀO ĐẾN CUỘC TỔNG TUYỂN CỬ ĐẦU TIÊN
1. Quốc dân Đại hội Tân Trào - tiền thân của Quốc hội Việt Nam (16/8/1945), biểu hiện cao nhất của ý chí đoàn kết toàn dân tộc
Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nhận định: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hạnh phúc”[1].
Trong quá trình chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, trước chuyển biến nhanh chóng của tình hình thế giới có lợi cho cách mạng Việt Nam, tháng 10/1944 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho quốc dân đồng bào thông báo chủ trương triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để thành lập một cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta tạo nên sức mạnh dân tộc bên trong và tranh thủ ngoại viện của quốc tế nhằm chớp thời cơ thuận lợi thực hiện cho được mục tiêu độc lập, tự do. Từ ngày 13 -15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) để quyết định phát động Tổng khởi nghĩa.
Ngày 16/8/1945, tại đình Tân Trào (Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh (Việt Nam độc lập Đồng minh hội) đã khai mạc Đại hội đại biểu Quốc dân (còn gọi là Quốc dân Đại hội Tân Trào). Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu đại diện cho 3 miền Bắc - Trung - Nam, đại diện cho các ngành, các giới, các dân tộc, các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc và một số Việt kiều ở Thái Lan và Lào để bàn kế hoạch Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về Nhân dân. Đại hội thông qua ba quyết định lớn: nhất trí tán thành chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh; thông qua 10 chính sách của Việt Minh, trong đó, điểm mấu chốt đầu tiên là giành chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoàn toàn độc lập; thành lập Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Đại hội đã quy định Quốc kỳ là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa, Quốc ca là bài “Tiến quân ca”. Ngày 17/8/1945, Đại hội bế mạc, thay mặt Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời tuyên thệ: “Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Uỷ ban dân tộc giải phóng để lãnh đạo cuộc cách mạng của Nhân dân. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo Nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, không lùi bước”[2].
Quốc dân Đại hội Tân Trào là mốc son trong lịch sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam, là tiền thân của Quốc hội Việt Nam, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Việt Nam quốc dân đại biểu Đại hội cử ra Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam để lãnh đạo toàn quốc nhân dân kiên quyết đấu tranh cho nước được độc lập. Đó là một tiến bộ rất lớn trong lịch sử tranh đấu giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay. Đó là một điều khiến cho đồng bào ta phấn khởi và riêng tôi hết sức vui mừng”[3].
2. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và Tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội Việt Nam
Thực hiện Nghị quyết Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Nhân dân Việt Nam đã nhất tề nổi dậy. Cuộc Tổng khởi nghĩa đã nhanh chóng giành được thắng lợi, tiêu biểu là khởi nghĩa ở Hà Nội (ngày 19/8/1945), Huế (ngày 23/8/1945), Sài Gòn (ngày 25/8/1945). Ngày 25/8/1945, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Uỷ ban giải phóng Dân tộc do Quốc dân Đại hội Tân Trào cử ra được cải tổ thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam - Một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách chỉ đạo cho toàn thể, đợi ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ cộng hoà chính thức.
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng chục vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 03/9/1945, Chính phủ lâm thời tổ chức phiên họp đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ “tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu, nghèo, tôn giáo, dòng giống…”.
Ngày 08/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành Sắc lệnh số 14-SL quy định mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội; ban hành Sắc lệnh số 39-SL, ngày 26/9/1945 về thành lập Uỷ ban dự thảo thể lệ cuộc Tổng tuyển cử; ban hành Sắc lệnh số 51-SL, ngày 17/10/1945 quy định thể lệ cuộc Tổng tuyển cử phải thực hiện theo lối phổ thông đầu phiếu, bầu cử trực tiếp và bỏ phiếu kín; Sắc lệnh số 71-SL, ngày 02/12/1945 bổ khuyết Điều 11 chương V của Sắc lệnh số 51-SL nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người ứng cử.
Việc tổ chức Tổng tuyển cử, các ban bầu cử đã được thành lập tới tận làng xã do Uỷ ban nhân dân các cấp trực tiếp đảm nhiệm. Nhiều người có tài, có đức xung phong ra ứng cử hoặc được quần chúng giới thiệu ra ứng cử. Danh sách cử tri và ứng cử viên được hoàn thành và niêm yết công khai. Quần chúng sôi nổi trao đổi, tranh luận, chất vấn nhằm lựa chọn được những người xứng đáng nhất làm đại diện cho mình, hạn chế những phần tử cơ hội lợi dụng dịp Tổng tuyển cử để tranh giành quyền chức.
Ngày 05/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu. Đáp lại lời kêu gọi thiêng liêng của Tổ quốc, bằng ý chí sắt đá của một dân tộc quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được, toàn thể Nhân dân Việt đã dành trọn ngày lịch sử - ngày 06/01/1946: Toàn dân đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội.
3. Kết quả của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên
Ngày 06/01/1946, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên đã diễn ra trên cả nước, kể cả các vùng đang có chiến sự ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Ở Hà Nội đã có 91,95% cử tri của 74 khu nội thành và 118 làng ngoại thành đi bỏ phiếu. Kết quả có 06 trong số 74 ứng cử viên đã trúng cử đại biểu Quốc hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng cử với số phiếu cao nhất (98,4%).
Các tỉnh phía Bắc, mặc dù phải đối phó với âm mưu phá hoại tinh vi và trắng trợn của kẻ thù, nhưng cuộc Tổng tuyển cử diễn ra an toàn. Các tỉnh phía Nam, nhất là ở Nam Bộ, cuộc bầu cử diễn ra dưới bom đạn ác liệt của giặc Pháp lúc bấy giờ.
Tổng số cử tri đi bỏ phiếu đạt tỷ lệ 89%. Cuộc Tổng tuyển cử đã bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau; 43% số đại biểu không đảng phái; 87% số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sỹ cách mạng; 10 đại biểu nữ và 34 đại biểu dân tộc thiểu số.
Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của Việt Nam năm 1946 được tiến hành theo nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời, thắng lợi đó là một mốc son đánh dấu bước phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam.
4. Ý nghĩa của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội Việt Nam đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách mạng Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới của đất nước ta có một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một bản Hiến pháp tiến bộ và một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho Nhân dân Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Cuộc bầu cử là căn cứ để khẳng định Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có tính chất hợp pháp, dân chủ - Nhà nước của dân, do dân và vì dân, được quốc dân giao phó trọng trách điều hành đất nước, tổ chức toàn dân kháng chiến, kiến quốc, giải quyết mọi quan hệ của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đã khẳng định chủ trương, đường lối của Đảng ta đúng đắn, sáng tạo, sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; thể hiện khát vọng được độc lập, tự do của Nhân dân Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử cũng đã khẳng định niềm tin tuyệt đối của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào tinh thần yêu nước của Nhân dân ta; đồng thời, đó cũng là sự biểu thị khát vọng dân chủ của Nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM
1. Các giai đoạn phát triển
1.1. Thời kỳ 1946 - 1960
Kỳ họp thứ nhất, khai mạc vào ngày 02/3/1946 tại Nhà hát lớn Hà Nội. Quốc hội đã nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đại diện cho Chính phủ khai mạc và báo cáo những công việc đã làm trong thời gian trước đó; biểu quyết thông qua danh sách các thành viên Chính phủ liên hiệp kháng chiến gồm 12 người, lập ra Cố vấn đoàn, Kháng chiến ủy viên hội; bầu Ban Thường trực Quốc hội do ông Nguyễn Văn Tố làm Trưởng ban và quyết định khi Chính phủ muốn tuyên chiến hay đình chiến bắt buộc phải hỏi ý kiến Ban Thường trực Quốc hội; để tập hợp các lực lượng đại diện các đảng phái, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị và được toàn thể Quốc hội chấp nhận mở rộng thành phần Quốc hội thêm 70 đại biểu cho 2 Đảng phái là Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam độc lập Đồng minh hội (Việt Cách) không qua bầu cử. Như vậy, tổng số đại biểu Quốc hội khóa I nâng lên thành 403 đại biểu.
Kỳ họp thứ hai, tổ chức từ ngày 28/10 đến 09/11/1946. Các đại biểu Quốc hội đã chất vấn Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội nhiều vấn đề chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, tài chính, nội vụ, việc ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946, Cuộc đàm phán Fontainebleau đi đến Bản Thỏa hiệp tạm thời ngày 14/9/1946. Quốc hội đã thảo luận và thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Hiến pháp 1946 với 240/242 đại biểu biểu quyết tán thành. Đây là bản Hiến pháp đầu tiên phản ánh bản chất dân chủ của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Do hoàn cảnh chiến tranh đang lan rộng, việc chuẩn bị kháng chiến rất khẩn trương; bầu Nghị viện nhân dân theo quy định của Hiến pháp 1946 chưa tổ chức được. Quốc hội lập hiến do toàn dân bầu ra ngày 06/01/1946 trở thành Quốc hội lập pháp và kéo dài nhiệm kỳ hoạt động (khóa I) đến năm 1960.
Giai đoạn 1946 - 1954, Quốc hội đã cùng với Nhân dân tiến hành sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, thực hiện cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, quyết liệt trên các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa... Để sự lãnh đạo và điều hành đất nước được tập trung thống nhất, Quốc hội đã giao quyền hạn tập trung vào Chính phủ. Ban Thường trực Quốc hội luôn cùng Chính phủ bàn bạc, tham gia ý kiến về các chủ trương, chính sách lớn và giám sát, phê bình Chính phủ về mọi công việc kháng chiến.
Giai đoạn từ 1954 - 1960, theo Hiệp định Genevơ, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền Bắc - Nam. Quốc hội đã cùng với Nhân dân tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: miền Bắc sau khi giải phóng đã bước vào thời kỳ khôi phục, cải tạo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa; miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, tiến hành đấu tranh giải phóng miền Nam tiến tới hòa bình, thống nhất đất nước.
Quốc hội khóa I tổ chức 12 kỳ họp trong 14 năm và xem xét, thông qua bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, 16 đạo luật và 50 nghị quyết, trong đó có những đạo luật quan trọng như: Luật Cải cách ruộng đất, Luật quy định quyền tự do hội họp, Luật quy định quyền lập hội, Luật về chế độ báo chí... Đánh giá công lao to lớn của Quốc hội khóa I, tại kỳ họp thứ 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Quốc hội ta đã hết lòng vì dân vì nước, đã làm trọn một cách vẻ vang nhiệm vụ của những đại biểu của nhân dân”.
1.2. Thời kỳ 1960 - 1980
Đây là thời kỳ Quốc hội hoạt động trong điều kiện miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội làm hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam. Hiến pháp 1959: Quốc hội có 17 nhiệm vụ, quyền hạn, trong đó xây dựng Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm pháp luật; giám sát việc thi hành Hiến pháp; bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; theo đề nghị của Chủ tịch nước quyết định cử Thủ tướng Chính phủ; theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ quyết định cử Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; bầu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; bầu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao...
Cơ cấu tổ chức của Quốc hội được quy định trong Hiến pháp 1959 bao gồm Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban dự án pháp luật, Ủy ban kế hoạch và ngân sách và những Ủy ban khác mà Quốc hội xét thấy cần thiết để giúp Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội do Quốc hội bầu ra, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và các ủy viên. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực thi 18 nhiệm vụ, quyền hạn, như: Tuyên bố và chủ trì việc tổng tuyển cử đại biểu Quốc hội; triệu tập Quốc hội; giải thích pháp luật; quyết định việc trưng cầu ý kiến Nhân dân. Thời kỳ này, Quốc hội đã có 05 khóa hoạt động.
- Quốc hội khóa II (1960 - 1964): tổ chức bầu ngày 08/5/1960; tổng số 453 đại biểu, trong đó có 91 đại biểu miền Nam lưu nhiệm theo Nghị quyết của kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I. Đây là nhiệm kỳ đầu tiên nhà nước và Nhân dân đi vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân theo đường lối chiến lược do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đề ra. Nhiệm kỳ Quốc hội là 4 năm, có 8 kỳ họp và thông qua 6 đạo luật quan trọng về tổ chức của các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 9 pháp lệnh. Quốc hội đã phát huy vai trò quan trọng trong việc động viên sức người, sức của để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Quốc hội đã thông qua Kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), thông qua Cương lĩnh hành động của toàn dân nhằm thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; thông qua kế hoạch hằng năm, xét duyệt và phê chuẩn dự toán, quyết toán ngân sách nhà nước; phê chuẩn việc thành lập các tổ chức và cơ quan nhà nước; bổ nhiệm cán bộ cấp cao của Nhà nước; phê chuẩn việc khen thưởng và đã tích cực giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của Nhân dân, ân xá những phạm nhân cải tạo tốt.
- Quốc hội khóa III (1964 - 1971): tổ chức bầu ngày 26/4/1964; tổng số 453 đại biểu, trong đó có 87 đại biểu Quốc hội khóa I thuộc các tỉnh miền Nam được lưu nhiệm. Nhiệm kỳ khóa III của Quốc hội hoạt động trong chiến tranh, kéo dài trong 7 năm, với 7 kỳ họp; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp 95 phiên, thông qua nhiều nghị quyết về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại, về tổ chức hành chính, về nhân sự phục vụ sự nghiệp xây dựng miền Bắc, phục vụ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Năm 1965, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Quốc hội đã thông qua Nghị quyết giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội thêm một số quyền hạn trong trường hợp Quốc hội không có điều kiện thuận tiện để họp. Những chủ trương, chính sách, nhiệm vụ công tác lớn về chống Mỹ, cứu nước, về chính sách kinh tế thời chiến, về đối ngoại được Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn nhanh chóng, là điều kiện quan trọng bảo đảm kịp thời những yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng.
- Quốc hội khóa IV (1971 - 1975): tổ chức bầu ngày 11/4/1971; tổng số 420 đại biểu. Quốc hội khóa IV họp 5 kỳ trong 4 năm; Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp 53 phiên, đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu các kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế; phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước hằng năm, góp phần quan trọng vào việc củng cố và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sức mạnh để đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải đàm phán và ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (1973). Hoạt động của Quốc hội đã góp phần quan trọng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta đánh đổ chế độ thực dân mới ở miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất đất nước.
- Quốc hội khóa V (1975 - 1976): tổ chức bầu ngày 06/4/1975; tổng số 424 đại biểu. Quốc hội khóa V ra đời trong bối cảnh miền Nam vừa mới giải phóng (30/4/1975) và hoạt động chưa đầy 2 năm, họp 2 kỳ; Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp 10 phiên đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng của đất nước. Quốc hội đã góp phần quan trọng trong việc thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. Ngày 27/10/1975, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp phiên đặc biệt để thảo luận, thông qua đề án thực hiện thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, cử đoàn đại biểu miền Bắc tham dự Hội nghị hiệp thương với đoàn đại biểu miền Nam. Tại Hội nghị hiệp thương, các đại biểu của đoàn miền Bắc và đại biểu của đoàn miền Nam đã khẳng định cần hoàn thành thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là sự thống nhất trọn vẹn vững chắc nhất. Tại kỳ họp thứ hai (tháng 12/1975), Quốc hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết phê chuẩn kết quả Hội nghị hiệp thương mở ra thời kỳ phát triển mới của nước Việt Nam thống nhất.
- Quốc hội khóa VI (1976 - 1981): tổ chức bầu ngày 25/4/1976, là Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất; tổng số 492 đại biểu. Kết quả của cuộc Tổng tuyển cử là một thắng lợi có ý nghĩa quyết định đưa cách mạng Việt Nam chính thức bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thể hiện tính liên tục của Nhà nước qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng, Quốc hội đã quy định Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất là Quốc hội khóa VI. Quốc hội quyết định đổi tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quy định Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca; chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định là Thành phố Hồ Chí Minh; quy định Thủ đô của nước Việt Nam thống nhất là Hà Nội. Quốc hội đã ra Nghị quyết về việc thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Kỳ họp thứ 7 (tháng 12/1980), Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Hiến pháp 1980. Đây là bản Hiến pháp thứ ba được Quốc hội thông qua để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới của cách mạng.
1.3. Thời kỳ 1980 - 1992
Đây là thời kỳ Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 1980 và Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước 1981. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Quốc hội được cụ thể hóa thành 15 nhiệm vụ và quyền hạn, trong đó có những nội dung rất quan trọng như: Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật; quyết định kế hoạch nhà nước và phê chuẩn việc thực hiện kế hoạch nhà nước; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước... Ngoài ra, Quốc hội có thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết.
Hiến pháp 1980 đã có sự điều chỉnh lớn về cơ cấu tổ chức của Quốc hội. Đó là việc thiết lập Hội đồng Nhà nước thay cho chế định Ủy ban Thường vụ Quốc hội và lần đầu tiên Hiến pháp quy định chức danh Chủ tịch Quốc hội. Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chủ tịch Quốc hội có nhiệm vụ chủ tọa các phiên họp của Quốc hội; bảo đảm việc thi hành nội quy của Quốc hội; giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội; điều hòa và phối hợp hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội; chứng thực những luật và nghị quyết đã được Quốc hội thông qua; thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội có quyền tham dự các phiên họp của Hội đồng Nhà nước. Thời kỳ này, Quốc hội trải qua 02 khóa hoạt động:
- Quốc hội khóa VII (1981 - 1987): tổ chức bầu vào ngày 26/4/1981; tổng số 496 đại biểu. Quốc hội khóa VII với 12 kỳ họp và ban hành 10 đạo luật (trong đó có Bộ luật Hình sự đã được thông qua tại kỳ họp thứ 9 ngày 27/6/1985), 35 nghị quyết; Hội đồng Nhà nước ban hành 15 pháp lệnh, Quốc hội đã triển khai thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, như: thành lập các cơ quan nhà nước ở Trung ương; thông qua các nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm; quyết định các vấn đề cử và miễn nhiệm một số thành viên Hội đồng Bộ trưởng... Hoạt động giám sát được Quốc hội và Hội đồng Nhà nước coi trọng, tập trung vào các vấn đề quản lý kinh tế - xã hội, việc thi hành Hiến pháp, pháp luật nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hoạt động chất vấn tại kỳ họp đã có bước cải tiến, tại kỳ họp thứ 10, các đại biểu Quốc hội đã tập trung chất vấn vào việc đánh giá những sai lầm, khuyết điểm về việc thực hiện chính sách “giá - lương - tiền”, đồng thời đề ra những biện pháp khắc phục. Thời kỳ này, hoạt động ngoại giao nghị viện cũng được đẩy mạnh, chú trọng nguyên tắc nhất quán, ủng hộ những sáng kiến hòa bình, bảo đảm an ninh chung của nhân loại.
- Quốc hội khóa VIII (1987 - 1992): tổ chức bầu ngày 19/4/1987; tổng số 496 đại biểu. Quốc hội khóa VIII, là Quốc hội của giai đoạn đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra. Nhiệm kỳ này Quốc hội họp 11 kỳ và thông qua 2 bộ luật, 25 đạo luật; Hội đồng Nhà nước đã ban hành 39 pháp lệnh. Kỳ họp thứ 5 (tháng 6/1989), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp để tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1980 một cách cơ bản và đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội khóa VIII xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 11 (năm 1992). Kế thừa và phát triển các bản Hiến pháp trước đây, ngoài việc thể hiện ý chí và nguyện vọng của Nhân dân, Hiến pháp 1992 đã thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tạo hành lang pháp lý cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước phát triển trong giai đoạn mới.
1.4. Thời kỳ 1992 đến nay
Đây là thời kỳ Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013. Quốc hội đã có những đổi mới cơ bản, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thời kỳ này, Quốc hội có 07 khóa hoạt động:
- Quốc hội khóa IX (1992 - 1997): tổ chức bầu ngày 19/7/1992; tổng số 395 đại biểu. Quốc hội khóa IX hoạt động theo quy định của Hiến pháp 1992, trong đó có vai trò quan trọng về việc thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội lần thứ VII của Đảng đề ra. Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ kế hoạch 5 năm (1996-2000). Hoạt động của Quốc hội đã góp phần đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới sâu sắc và toàn diện, phát huy vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Quốc hội khóa IX tiến hành 11 kỳ họp và ban hành 36 luật, bộ luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 43 pháp lệnh. Quốc hội đã có nhiều quyết sách quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước. Công tác giám sát của Quốc hội đã có những đổi mới như tiến hành nghe các báo cáo hoạt động của các cơ quan nhà nước ở Trung ương; cử các đoàn đi kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương. Quốc hội đã chú trọng đến công tác dân nguyện, tiếp dân và giải quyết các đơn thư của Nhân dân; tổ chức nhiều đoàn công tác của Quốc hội về địa phương để đôn đốc việc giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền.
- Quốc hội khóa X (1997 - 2002): tổ chức bầu ngày 20/7/1997; tổng số 450 đại biểu. Quốc hội khóa X tiến hành 11 kỳ họp và ban hành 01 bộ luật, 31 luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 39 pháp lệnh. Nổi bật của kỳ họp thứ 10, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 51/2001/QH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, nhằm thể chế hóa đường lối của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng. Quốc hội ngày càng chú trọng và chủ động hơn trong việc xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, như: Quyết định các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia, tổ chức bộ máy và nhân sự của các cơ quan nhà nước do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, các vấn đề về bảo đảm quốc phòng, an ninh. Hoạt động giám sát của Quốc hội khóa X được triển khai tích cực, đổi mới về nội dung và hình thức giám sát. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội được triển khai chủ động nhằm củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị với tất cả các nước; đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động trên các diễn đàn nghị viện đa phương.
- Quốc hội khóa XI (2002 - 2007): tổ chức bầu ngày 19/5/2002; tổng số 498 đại biểu. Trong nhiệm kỳ này, số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách đã tăng lên đáng kể. Có 120 đại biểu (chiếm gần 25% tổng số đại biểu Quốc hội) hoạt động chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội và 64 đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Quốc hội đã ban hành 84 luật, bộ luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 31 pháp lệnh. Chất lượng các dự án luật, pháp lệnh được thông qua đã bám sát yêu cầu của cuộc sống, xử lý tốt một số vấn đề nhạy cảm và phản ánh đầy đủ hơn thực tiễn xã hội. Hoạt động giám sát đã tập trung vào các vấn đề bức xúc được dư luận phản ánh và Nhân dân quan tâm, như: Đầu tư dàn trải, thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; triển khai thực hiện một số công trình quan trọng quốc gia; về giáo dục, y tế; phòng, chống tham nhũng, lãng phí... Việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng thực chất hơn, từ tổ chức bộ máy nhà nước, nhân sự cấp cao, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước cho đến chủ trương đầu tư các dự án, công trình quan trọng quốc gia, phê chuẩn Nghị định thư về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới...
- Quốc hội khóa XII (2007 - 2011): tổ chức bầu ngày 20/5/2007; tổng số 493 đại biểu. số lượng các Ủy ban của Quốc hội khóa XII tăng lên thành 9 Ủy ban với việc Quốc hội thành lập mới Ủy ban Tư pháp, tách Ủy ban Kinh tế - Ngân sách thành Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Tài chính, Ngân sách. Số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách được tăng cường với 145 đại biểu, chiếm 29,41% tổng số đại biểu Quốc hội. Trong nhiệm kỳ 4 năm, Quốc hội khóa XII đã ban hành 68 luật, 12 nghị quyết; Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 13 pháp lệnh và 7 nghị quyết. Hoạt động giám sát được tăng cường, có nhiều đổi mới về cách thức tiến hành, nhất là chất vấn và giám sát chuyên đề. Nội dung giám sát tập trung vào những vấn đề bức xúc của cuộc sống, bao quát hầu hết các lĩnh vực. Chất vấn và trả lời chất vấn tiếp tục được cải tiến mạnh mẽ theo hướng tập trung hơn, thực chất hơn, phản ánh sát thực tâm tư, nguyện vọng của cử tri; chỉ ra trách nhiệm và giải pháp nhằm thúc đẩy thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và nghị quyết của Quốc hội. Việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn vì lợi ích của quốc gia, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của Nhân dân.
- Quốc hội khóa XIII (2011 - 2016): tổ chức bầu ngày 22/5/2011, đây là lần đầu tiên cử tri cả nước tham gia cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong cùng một ngày với quy mô lớn. Cuộc bầu cử đã thành công tốt đẹp, tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu đạt 99,51%, bầu ra 500 đại biểu Quốc hội tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thành tựu nổi bật nhất của Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã biểu quyết thông qua toàn văn Dự thảo Hiến pháp năm 2013 (kỳ họp thứ 6). Nhiệm kỳ này, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét, thông qua 100 luật, bộ luật, 10 pháp lệnh và nhiều nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật. Sau khi Hiến pháp mới được thông qua, Quốc hội đã thông qua các bộ luật lớn, các đạo luật quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về lĩnh vực tư pháp, về lĩnh vực xã hội trên cơ sở bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bảo đảm an sinh xã hội, thể hiện nỗ lực to lớn, trách nhiệm trước Nhân dân của Quốc hội.
Quốc hội khóa XIII, đánh dấu mốc lịch sử khi lần đầu tiên tiến hành lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Hoạt động giám sát chuyên đề, chất vấn và trả lời chất vấn có nhiều cải tiến, đổi mới theo hướng rõ vấn đề, rõ địa chỉ. Quốc hội khóa XIII lần đầu tiên tất cả các thành viên Chính phủ, từ Thủ tướng, các Phó Thủ tướng đến các bộ trưởng, trưởng ngành đều đăng đàn trả lời chất vấn trước Quốc hội. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần thực hiện có kết quả đường lối đối ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Việc đăng cai tổ chức Đại hội đồng lần thứ 132 của Liên minh nghị viện thế giới (IPU-132) tại Hà Nội vào tháng 3/2015 là một sự kiện chính trị quan trọng có ý nghĩa lịch sử ngoại giao hết sức to lớn, thể hiện tinh thần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng của Quốc hội nước ta, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta và không ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Quốc hội khóa XIV (2016 - 2021): tổ chức bầu ngày 22/5/2016 với 99,35% cử tri đi bỏ phiếu, bầu ra 494 đại biểu Quốc hội. Đại biểu Quốc hội chuyên trách đạt tỷ lệ 34,91%, cao nhất so với các nhiệm kỳ trước. Quốc hội khóa XIV đã ban hành 65 luật và 99 nghị quyết, trong đó có nhiều đạo luật quan trọng nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước theo các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Điểm mới trong nhiệm kỳ này là Quốc hội đã trực tiếp thành lập các đoàn giám sát chuyên đề thay vì ủy quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành lập và triển khai thực hiện như trước đây. Việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước tiếp tục được nâng cao chất lượng và ngày càng thực chất hơn, bảo đảm lợi ích quốc gia, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, tạo ra những tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhiệm kỳ này đánh dấu bước tiến vượt bậc của Quốc hội trong việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động của Quốc hội. Việc đổi mới cách thức thảo luận từ Quốc hội “tham luận” sang Quốc hội “tranh luận” cũng là một điểm nhấn quan trọng. Tại kỳ họp thứ 9, lần đầu tiên trong lịch sử, Quốc hội đã họp theo hình thức kết hợp giữa họp trực tuyến và họp tập trung để đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội phát huy vai trò là kênh đối ngoại quan trọng, vừa mang tính đối ngoại nhà nước, vừa mang tính nhân dân sâu sắc, đóng góp tích cực vào thành công chung trong việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, như: đăng cai tổ chức thành công Hội nghị Diễn đàn Nghị viện Châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 26 (APPF-26) vào năm 2018, Quốc hội Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch AIPA và tổ chức Đại hội đồng Liên nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á lần thứ 41 (AIPA-41) trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp đã thể hiện vai trò thành viên chủ động, tích cực, đối tác tin cậy và trách nhiệm của Việt Nam và Quốc hội Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần quan trọng duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và thế giới.
- Quốc hội khóa XV (2021 - 2026): tổ chức bầu ngày 23/5/2021 trong bối cảnh bùng phát dịch bệnh Covid-19. Gần 70 triệu cử tri cả nước đã tham gia bỏ phiếu (đạt tỉ lệ 99,6% - tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay), bầu ra 499 đại biểu Quốc hội đại diện cho cho các tầng lớp Nhân dân, thành phần xã hội.
Về cơ cấu tổ chức, Quốc hội khoá XV thể hiện tư duy đột phá, quyết liệt trong sắp xếp tinh gọn bộ máy, hệ thống chính trị theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền trong giai đoạn mới. Công tác lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV được triển khai với tinh thần “lập pháp chủ động”, bám sát thực tiễn, có nhiều cách làm mới, linh hoạt, hiệu quả, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Số lượng các luật, nghị quyết được thông qua trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV tăng lên qua từng kỳ họp. Tính riêng số lượng luật, nghị quyết được thông qua trong năm 2024 nhiều nhất từ đầu nhiệm kỳ tới nay với 31 luật, 42 nghị quyết (chiếm gần 50% tổng số nhiệm vụ lập pháp đã hoàn thành từ đầu nhiệm kỳ đến nay). Riêng Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV đã thông qua 18 luật, gần bằng 1/3 tổng số luật được thông qua từ đầu nhiệm kỳ với chất lượng đáp ứng được yêu cầu, được cử tri và Nhân dân đánh giá cao.
Trong giai đoạn ứng phó, thích ứng với đại dịch Covid-19 cũng như phục hồi phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch, Quốc hội đã xem xét, quyết định nhiều chủ trương, chính sách lớn, cơ chế, quy định đặc thù trong phòng, chống dịch Covid-19, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, nền kinh tế chống chịu vượt qua những tác động của đại dịch; các chính sách tài khoá, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội với quy mô chưa từng có. Quốc hội đã thông qua các Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội với nhiều nhiệm vụ, giải pháp có tính mới, đột phá, trọng tâm, trọng điểm làm căn cứ để Chính phủ tập trung chỉ đạo, điều hành.
Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã cho ý kiến về việc sửa đổi Hiến pháp 2013 và sửa đổi các luật liên quan nhằm phục vụ việc tinh gọn bộ máy theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đây là thành tựu mang tính lịch sử, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi quyết định thành công của cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy, tạo động lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới.
Hoạt động giám sát của Quốc hội khoá XV ngày càng thể hiện tính linh hoạt, nhạy bén trước những vấn đề lớn, nổi lên trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần thực hiện mục tiêu “không ngừng đổi mới và đẩy mạnh công tác giám sát là khâu trọng tâm, then chốt để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội”.
Hoạt động ngoại giao nghị viện tiếp tục được đẩy mạnh, đạt nhiều thành tựu nổi bật trên cả hai bình diện song phương và đa phương. Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, lần đầu tiên Chủ tịch Quốc hội Việt Nam cùng Chủ tịch Quốc hội Campuchia và Chủ tịch Quốc hội Lào ký Tuyên bố chung thiết lập cơ chế Hội nghị cấp cao Quốc hội ba nước Campuchia-Lào-Việt Nam (CLV); Quốc hội Việt Nam đăng cai tổ chức thành công Hội nghị Nghị sĩ trẻ toàn cầu lần thứ 9; các thỏa thuận hợp tác quốc tế được ký kết giữa Quốc hội Việt Nam với Quốc hội các nước... Những kết quả này đã góp phần thúc đẩy ngoại giao nghị viện và hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, tạo thuận lợi thúc đẩy tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Đến nay, Quốc hội khoá XV đã tổ chức 17 kỳ họp Quốc hội, trong đó có 9 kỳ họp bất thường và 8 kỳ họp thường lệ. Việc triển khai xây dựng Quốc hội số và ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong chuyển đổi số của Quốc hội được thực hiện quyết liệt, thể hiện quyết tâm của Quốc hội trong đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
2. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động
Qua 80 năm hình thành, xây dựng và phát triển, Quốc hội Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, là hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với các cử tri, luôn đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân. Sự phát triển của Quốc hội là một quá trình liên tục kế thừa và không ngừng đổi mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng Việt Nam. Kinh nghiệm thực tiễn của Quốc hội khóa trước luôn là bài học quý cho việc củng cố, nâng cao Quốc hội khóa sau. Việc đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội cần được tiến hành chặt chẽ, đồng bộ, có định hướng mục tiêu rõ ràng, bước đi chắc chắn và mang lại hiệu quả thiết thực.
Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền trong giai đoạn mới được coi là cơ sở chính trị quan trọng để đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Nghị quyết thể hiện tinh thần, tư tưởng, quan điểm, mục tiêu trọng tâm, nhiệm vụ và giải pháp đổi mới mang tính đột phá trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, cần tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội đáp ứng các yêu cầu sau đây:
- Tiếp tục xây dựng Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; phát huy tính dân chủ, pháp quyền, hiện đại, chuyên nghiệp, khoa học, công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động, bảo đảm Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đến quan trọng của đất nước, giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
- Đề cao vai trò trung tâm của đại biểu Quốc hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp. Gắn trách nhiệm của đại biểu Quốc hội với đơn vị bầu cử và cử tri; đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội; hoàn thiện cơ chế giám sát của cử tri và cơ chế, phương thức, tiêu chí đánh giá đối với đại biểu Quốc hội; bảo đảm các điều kiện để đại biểu Quốc hội thực hiện tốt vai trò trung tâm của mình.
- Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội theo hướng nghiên cứu tăng hợp lý số kỳ họp của Quốc hội; kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ do Hiến pháp quy định; đề cao vị trí, vai trò, kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội theo hướng rành mạch, chủ động, trách nhiệm, chuyên sâu, nhạy bén; hoàn thiện thiết chế Tổng Thư ký Quốc hội; xây dựng Quốc hội điện tử.
- Tiếp tục đổi mới căn bản, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động lập pháp, bảo đảm quản trị quốc gia bằng Hiến pháp và pháp luật, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Đẩy nhanh vững chắc, có cơ sở khoa học việc xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, tập trung vào các lĩnh vực, vấn đề đột phá, trọng điểm cần đầu tư để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững.
- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả; đa dạng hoá nguồn pháp luật, đề cao và coi trọng đạo luật, đơn giản hoá, giảm tầng nấc, loại hình văn bản trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; chủ động tham gia, đóng góp vào việc xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự quốc tế, khu vực; hiện đại hoá phương thức, phương tiện xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật.
- Phát triển nguồn nhân lực pháp luật, nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo nhân lực hợp tác pháp luật quốc tế; xây dựng cơ chế thúc đẩy sự tham gia và hiện diện của chuyên gia pháp luật Việt Nam trong các thiết chế pháp luật quốc tế; hoàn thiện cơ chế pháp lý về bảo hộ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân, pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài.
- Tiếp tục nghiên cứu xác định rõ hơn phạm vi, đối tượng, phương pháp, hình thức giám sát tối cao của Quốc hội phù hợp thực tiễn; nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn, giải trình, giám sát văn bản quy phạm pháp luật; chú trọng việc theo dõi, xem xét, đôn đốc việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát; thực hiện nghiêm việc lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội.
- Đổi mới quy trình quyết định về ngân sách nhà nước bảo đảm thực chất, đi đôi giám sát việc thực hiện ngân sách, từng bước thay thế việc ban hành các nghị quyết bằng các đạo luật về tài chính, ngân sách.
III. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN, NHỮNG ĐÓNG GÓP QUAN TRỌNG VÀ NHIỆM VỤ THỜI GIAN TỚI CỦA ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI, HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
1. Quá trình phát triển
1.1. Đoàn Đại biểu Quốc hội (ĐBQH)
1.1.1. Quốc hội Khóa I đến khóa V (1946 - 1975)
Khóa I (1946 - 1960): Quốc hội đầu tiên được bầu trong hoàn cảnh nước nhà mới giành được độc lập. Khóa II đến khoá V: Trong bối cảnh kháng chiến, đất nước bị chia cắt, Hà Tĩnh vẫn duy trì việc bầu cử và có đại biểu tham gia Quốc hội nhưng cơ cấu tổ chức còn đơn giản, chủ yếu là các đại biểu kiêm nhiệm.
1.1.2. Khóa VI đến khóa IX (1976 - 1992)
Năm 1976, Hà Tĩnh hợp nhất với Nghệ An thành tỉnh Nghệ Tĩnh. Đại biểu Quốc hội được bầu đại diện cho đơn vị Nghệ Tĩnh, trong đó có một số đại biểu là người Hà Tĩnh. Đến năm 1991, tỉnh Hà Tĩnh được tái lập. Từ khóa IX (1992): Đoàn ĐBQH tỉnh Hà Tĩnh được thành lập, hoạt động có tổ chức, có Trưởng đoàn và các thành viên chuyên trách, Văn phòng giúp việc.
1.1.3. Khóa X đến khóa XV (1997 - nay)
Từ khóa X (1997): Số lượng đại biểu tăng dần (Duy trì Đoàn từ 06 - 07 người), trong đó có cả đại biểu chuyên trách và kiêm nhiệm. Đoàn ĐBQH có Trưởng đoàn, Phó trưởng đoàn, các đại biểu là lãnh đạo tỉnh, các ngành trung ương và địa phương.
Hình thành Văn phòng Đoàn ĐBQH tỉnh, sau này là Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, đảm nhận vai trò tham mưu, phục vụ hoạt động của Đoàn.
Từ khóa XIII - đến khóa XV (2011 - nay): Cơ cấu tổ chức Đoàn ĐBQH tỉnh Hà Tĩnh ngày càng ổn định. Bộ máy Đoàn gồm Trưởng đoàn, Phó Trưởng đoàn, đại biểu chuyên trách và kiêm nhiệm, hoạt động theo sự phân công rõ ràng. Nhiều đại biểu được phân công tham gia các Ủy ban của Quốc hội, trực tiếp tham gia xây dựng và thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết. Đoàn chủ động tổ chức lấy ý kiến góp ý vào các dự án luật; phối hợp các ngành, địa phương trong công tác xây dựng pháp luật, giám sát chuyên đề và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của cử tri. Hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo được duy trì nền nếp và nâng cao chất lượng. Tăng cường phối hợp với Thường trực HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ tỉnh và các cơ quan hữu quan để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ của Đoàn.
Hiện nay, Đoàn ĐBQH tỉnh Hà Tĩnh khóa XV gồm 07 đại biểu, trong đó: 01 đồng chí Phó Trưởng đoàn phụ trách Đoàn; 02/07 đại biểu hoạt động chuyên trách, trong đó 01 đại biểu hoạt động chuyên trách tại địa phương, 01 đại biểu hoạt động chuyên trách ở Trung ương; 05/07 đại biểu hoạt động không chuyên trách, trong đó: 03 đại biểu công tác tại Trung ương; 01 đại biểu Quân khu 4 và 01 đại biểu công tác tại địa phương; 06 đại biểu tham gia thành viên các Ủy ban của Quốc hội.
1.2. Hội đồng nhân dân (HĐND)
1.2.1. Từ Khóa I đến Khóa VII[4] (1946 - 1975)
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cùng với cả nước, Hà Tĩnh tiến hành cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 để bầu Quốc hội và các thiết chế HĐND các cấp. Ngày 17/02/1946, Hà Tĩnh tổ chức bầu cử HĐND tỉnh và HĐND xã. Kết quả: 97% cử tri đi bỏ phiếu, bầu ra 26 đại biểu HĐND tỉnh và 181 đại biểu HĐND xã.
Ngay sau Tổng tuyển cử năm 1946, theo Sắc lệnh 63/SL[5], HĐND các cấp được thành lập tại tỉnh Hà Tĩnh. Mặc dù trong điều kiện chiến tranh ác liệt, nhưng HĐND các cấp ở Hà Tĩnh đã tổ chức kỳ họp, bầu UBND các cấp và lãnh đạo Nhân dân thực hiện tốt chủ trương kháng chiến - kiến quốc, xây dựng nền hành chính dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Trong điều kiện kháng chiến, hoạt động HĐND chủ yếu tập trung vào: Huy động sức người, sức của cho kháng chiến; Tổ chức đời sống Nhân dân vùng tự do; Xây dựng chính quyền cách mạng vững mạnh từ cơ sở.
Trong hoàn cảnh đất nước vừa giành độc lập, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm hoành hành, sự ra đời của HĐND tỉnh là dấu mốc lịch sử, đánh dấu quyền làm chủ thực sự của Nhân dân.
1.2.2. Khóa VIII đến Khóa XI[6] (1975 - 1989)
Nhiệm kỳ HĐND tỉnh khoá VIII là nhiệm kỳ được tiến hành trong điều kiện lịch sử đặc biệt. HĐND được bầu ở 2 tỉnh (Nghệ An và Hà Tĩnh) vào tháng 4/1974 với tổng số lượng 203 đại biểu (Nghệ An 120 đại biểu và Hà Tĩnh 83 đại biểu). Trong thời gian từ năm 1974 đến năm 1975, Hội đồng làm nhiệm vụ ở 2 tỉnh (Nghệ An và Hà Tĩnh), vừa động viên toàn dân chi viện cho miền Nam, vừa hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá.
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Kỳ họp thứ 2 Quốc hội Khóa V (tháng 12/1975) đã quyết nghị hợp nhất 2 tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An thành tỉnh Nghệ Tĩnh. HĐND tỉnh Nghệ Tĩnh được hợp nhất từ số lượng đại biểu của 2 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh.
Giai đoạn này, đội ngũ cán bộ, đại biểu là người Hà Tĩnh đóng vai trò quan trọng trong việc tham gia điều hành, giám sát và hoạch định chính sách vùng Nam Nghệ Tĩnh, đặc biệt trong xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng, phát triển nông nghiệp - giáo dục - y tế…
1.2.3. Khóa XII đến Khóa XVIII[7] (1989 - 2026)
Ngày 12/8/1991, Kỳ họp thứ 9 Quốc hội Khóa VIII quyết định chia tách tỉnh Nghệ Tĩnh thành 2 tỉnh: Nghệ An và Hà Tĩnh. Khi chia tách tỉnh Nghệ Tĩnh, HĐND tỉnh Nghệ Tĩnh khóa XII gồm 100 đại biểu được chia thành 2 HĐND: HĐND tỉnh Nghệ An có 61 đại biểu và HĐND tỉnh Hà Tĩnh có 39 đại biểu. Từ đây, HĐND tỉnh Hà Tĩnh hoạt động với sự trở lại của thiết chế quyền lực địa phương độc lập tại tỉnh.
Giai đoạn này, HĐND tỉnh tập trung ban hành các nghị quyết quan trọng để tổ chức lại bộ máy hành chính, phân cấp quản lý giữa các cấp. Ưu tiên cơ chế huy động nguồn lực, phát triển kinh tế - xã hội vùng khó khăn, đặc biệt là miền núi và vùng bãi ngang ven biển. Từng bước củng cố chức năng giám sát hoạt động của UBND các cấp, các sở, ban, ngành; giám sát chuyên đề về đất đai, đầu tư, ngân sách...
Nhiệm kỳ 2021 - 2026, HĐND khóa XVIII diễn ra trong bối cảnh đặc biệt, thực hiện Nghị quyết Trung ương 18, 19 về tổ chức bộ máy tinh gọn; ứng phó với đại dịch COVID-19, phục hồi kinh tế. Thực hiện Nghị quyết 1665/NQ-UBTVQH15 về sắp xếp đơn vị hành chính, bỏ cấp chính quyền huyện từ ngày 01/7/2025, HĐND tỉnh Hà Tĩnh đã tăng cường vai trò cơ quan quyết sách trung tâm, ban hành nhiều nghị quyết mang tính định hướng dài hạn, đặc biệt về phát triển kinh tế vùng ven biển, nông nghiệp sạch, chuyển đổi số, an sinh xã hội... Chủ động giám sát các dự án trọng điểm, giám sát đầu tư công, bảo vệ môi trường, giải phóng mặt bằng và thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia. Chỉ định nhân sự cho bộ máy chính quyền cấp xã mới, đảm bảo điều kiện vận hành bước đầu thông suốt, hiệu quả.
2. Những đóng góp quan trọng
2.1. Đoàn Đại biểu Quốc hội
2.1.1. Tham gia xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Đoàn ĐBQH tỉnh đã chủ động xây dựng kế hoạch cụ thể, phân công rõ nhiệm vụ cho các đại biểu, bảo đảm mọi ý kiến tham gia đều sâu sát và chất lượng. Với các dự án luật có phạm vi ảnh hưởng rộng, tác động tới nhiều nhóm đối tượng và còn nhiều quan điểm trái chiều, Đoàn đã linh hoạt kết hợp nhiều phương pháp, như tổ chức lấy ý kiến bằng văn bản, thực hiện khảo sát thực tế và tổ chức các hội nghị chuyên đề. Những hoạt động này có sự tham gia của các chuyên gia, cơ quan, đơn vị chuyên môn và địa phương liên quan, nhằm bảo đảm tính toàn diện và khách quan.
Trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp các ý kiến tham gia đóng góp, Đoàn đã gửi đến các cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra, UBTVQH và các ĐBQH trong Đoàn làm tư liệu nghiên cứu tham gia thảo luận tại các kỳ họp. Cùng với đó, trong vai trò là thành viên các Ủy ban của Quốc hội, các ĐBQH trong Đoàn đã tích cực tham gia các hội nghị, thẩm tra, cho ý kiến về các dự án luật và nội dung quan trọng liên quan đến các kỳ họp.
2.1.2. Tham gia tích cực, hiệu quả tại nghị trường Quốc hội
Các đại biểu trong Đoàn luôn phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, tích cực, chủ động tham gia phát biểu thảo luận, ghi dấu ấn tại nghị trường với những nội dung kiến nghị xác đáng, xuất phát từ thực tiễn. Cụ thể như: Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV, các ĐBQH của Đoàn Hà Tĩnh đề xuất bổ sung quy định về quản lý chăn nuôi Hươu sao vào Điều 67 Dự án Luật Chăn nuôi, từ đó Hươu sao đã trở thành vật nuôi chủ lực, góp phần phát triển nền kinh tế địa phương; tham gia góp ý điều chỉnh việc sửa đổi toàn diện Luật Giáo dục, đổi tên từ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục thành Luật Giáo dục (sửa đổi). Tại kỳ họp thứ 7, 8, 9 Quốc hội khóa XV, ĐBQH trong Đoàn đề xuất sớm có quy định quản lý dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường; giải pháp sản xuất xanh, tiêu dùng xanh, bảo vệ môi trường; đấu tranh, phản bác và bảo vệ hàng hóa, thương hiệu Việt; khuyến khích hòa giải, đối thoại; tăng nhân lực thẩm phán, đầu tư cơ sở vật chất ngành tư pháp; hoàn thiện quy định xử lý chồng chéo, trùng lặp hoạt động thanh tra; cơ chế điều chỉnh quỹ đất nhà ở xã hội thành quỹ đất xây dựng nhà ở thương mại; kiểm soát chặt chẽ dữ liệu cá nhân…
Tại các kỳ họp, các đại biểu thảo luận, thống nhất biểu quyết thông qua nhiều cơ chế, chính sách quan trọng nhằm tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giải quyết kịp thời các vấn đề quốc kế dân sinh, vấn đề cấp bách trong thực tiễn, tháo gỡ khó khăn về cơ chế, chính sách, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh, hỗ trợ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân như: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013; Luật Đất đai (sửa đổi); Luật sửa đổi một số điều Luật Bảo hiểm Y tế; Luật Công đoàn (sửa đổi); Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi); Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi); Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi); Luật Chính phủ (sửa đổi); Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi); Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa, về phòng, chống ma túy; dự án Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam; chính sách phát triển kinh tế tư nhân; phát triển nhà ở xã hội; phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ từ 3-5 tuổi, miễn, hỗ trợ học phí cho trẻ em mầm non, học sinh phổ thông, người học chương trình giáo dục phổ thông... Bằng cách tiếp cận khoa học và thực tiễn, Đoàn ĐBQH Hà Tĩnh đã góp phần tích cực vào việc hoàn thiện thể chế, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của tỉnh và đất nước.
2.1.3. Giám sát, theo dõi việc thực thi chính sách, pháp luật tại địa phương
Với quan điểm giám sát “đúng” và “trúng” những vấn đề bất cập trong thực tiễn, hoạt động giám sát của Đoàn ĐBQH Hà Tĩnh được triển khai có trọng tâm, trọng điểm, đạt hiệu quả cao. Đoàn đã tổ chức các cuộc giám sát chuyên đề về thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; huy động, sử dụng nguồn lực phòng chống covid-19; y tế cơ sở, y tế dự phòng; đổi mới chương trình sách giáo khoa phổ thông; việc thực hiện Nghị quyết 43 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và các dự án thành phần cao tốc Bắc - Nam; quản lý thị trường bất động sản và nhà ở; phát triển và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao; bảo vệ môi trường… Các đại biểu trong Đoàn tham gia tích cực vào các đoàn giám sát và khảo sát do các cơ quan của Quốc hội, của địa phương tổ chức.
Quá trình giám sát, Đoàn chú trọng kết hợp việc xem xét báo cáo và khảo sát, kiểm tra thực tế, bảo đảm bám sát trọng tâm và đi sâu vào các vấn đề dư luận, cử tri quan tâm. Qua đó, Đoàn có được cái nhìn toàn diện về tình hình thực hiện chính sách, pháp luật tại địa phương, kịp thời phát hiện những tồn tại, hạn chế và vướng mắc; chỉ rõ nguyên nhân, trách nhiệm, đưa ra những giải pháp, kiến nghị xác đáng, đồng thời yêu cầu, đôn đốc các cơ quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết triệt để.
Trong hoạt động chất vấn, các ĐBQH trong Đoàn luôn thẳng thắn đề cập đến những vấn đề “nóng” được cử tri và Nhân dân quan tâm. Tại khóa XIV, Đoàn đã chất vấn Chính phủ, Bộ trưởng các bộ liên quan về việc dừng khai thác Mỏ sắt Thạch Khê, chất vấn Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với các vấn đề về cây ăn quả có múi, về căn cứ quy hoạch ngành chăn nuôi lợn… Tại khóa XV, ĐBQH trong Đoàn đã chất vấn các bộ, ngành liên quan về trách nhiệm đối với việc người lao động trở về quê trong dịch Covid-19; chất vấn Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về các cơ chế, chính sách thu hút xã hội hóa trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa được UNESCO vinh danh, cũng như việc chậm trễ ban hành danh mục và đơn giá dịch vụ sự nghiệp công, gây ảnh hưởng đến cơ chế tự chủ trong lĩnh vực văn hóa, thể thao; chất vấn Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Tư pháp về định mức chi phí giám định tư pháp trong các lĩnh vực pháp y, kỹ thuật hình sự…
Các nội dung chất vấn đều được Chính phủ, các Bộ trưởng, trưởng ngành tiếp thu nghiêm túc, giải trình thẳng thắn, nhận trách nhiệm và cam kết các giải pháp cụ thể để khắc phục. Các đại biểu trong Đoàn thường xuyên theo dõi, giám sát đến cùng việc giải quyết những vấn đề chất vấn, tạo niềm tin trong lòng cử tri và Nhân dân đối với cơ quan dân cử.
Các đại biểu Quốc hội Đoàn Hà Tĩnh tham gia khảo sát, làm việc với các đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trên địa bàn tỉnh; tham gia các Đoàn giám sát của các cơ quan của Quốc hội với tư cách là thành viên của các Ủy ban Quốc hội.
Đoàn ĐBQH tỉnh phối hợp chặt chẽ với Thường trực HĐND tỉnh tổ chức hiệu quả các cuộc giám sát, khảo sát trên địa bàn. Đối với các cuộc giám sát của Đoàn ĐBQH tỉnh tổ chức, đại diện Thường trực HĐND tỉnh, đại diện lãnh đạo các Ban HĐND tỉnh tham gia với vai trò là thành viên trong Đoàn giám sát. Đối với các cuộc giám sát của HĐND tỉnh tổ chức, Đoàn ĐBQH tỉnh, đồng chí Phó Trưởng Đoàn phụ trách tham gia giám sát. Việc phối hợp hiệu quả giữa Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh đã góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giám sát, đồng thời tạo sự thống nhất trong việc theo dõi, đôn đốc giải quyết các vấn đề cử tri và Nhân dân quan tâm.
2.1.4. Lắng nghe, tiếp thu và phản ánh ý kiến cử tri
Với phương châm “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, hoạt động tiếp xúc cử tri luôn được Đoàn ĐBQH Hà Tĩnh quan tâm, có nhiều đổi mới cả về nội dung và hình thức. Thông qua hội nghị tiếp xúc cử tri định kỳ, tiếp xúc cử tri chuyên đề, Đoàn đã thông tin kịp thời nội dung, chương trình, kết quả các kỳ họp. Các kiến nghị, phản ánh của cử tri và Nhân dân được ĐBQH cùng chính quyền địa phương trực tiếp trao đổi, giải đáp.
Đoàn ĐBQH tỉnh phối hợp chặt chẽ với lãnh đạo tỉnh và các cơ quan chức năng trong công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị. Đoàn không chỉ thường xuyên lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người dân mà còn tích cực tuyên truyền, hướng dẫn công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định pháp luật.
Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng được Đoàn đặc biệt chú trọng, với sự chủ động theo dõi và đôn đốc thực hiện các kiến nghị giám sát. Đơn cử như việc Đoàn trực tiếp tổ chức làm việc, giám sát việc giải quyết chế độ, chính sách cho công dân Nguyễn Văn Thành, xã Lâm Hợp, huyện Kỳ Anh đề nghị hưởng chế độ thương binh sau hơn 50 năm bị thương nhưng chưa được hưởng chế độ và kết quả công dân Nguyễn Văn Thành đã được hưởng chính sách thương binh và được truy lĩnh với số tiền gần 200 triệu đồng; Đoàn tổ chức làm việc bàn phương án giải quyết đơn của ông Nguyễn Văn Thiện, xã Hương Trạch, huyện Hương Khê kiến nghị nội dung: Mất hài cốt liệt sĩ, đề nghị giám định ADN, xác định danh tính liệt sĩ. Những nỗ lực bám sát, kiên trì giải quyết đến cùng của Đoàn đã góp phần củng cố niềm tin của cử tri và người dân, khẳng định vai trò cầu nối vững chắc giữa Quốc hội và Nhân dân.
2.1.5. Quan tâm công tác an sinh xã hội, đồng hành cùng của tri và Nhân dân tích cực tham gia nghiên cứu khoa học
Hàng năm, nhân các dịp lễ tết, Đoàn ĐBQH Hà Tĩnh thường xuyên tổ chức các hoạt động từ thiện, an sinh xã hội, cụ thể như: Trong nhiệm kỳ khóa XV, Đại biểu Quốc hội và Đoàn ĐBQH đã kêu gọi xây mới 71 căn nhà nhân ái, trị giá 5,460 triệu đồng; 01 khu nhà nội trú cho giáo viên và hàng nghìn suất quà cho thương binh, bệnh binh, thân nhân gia đình liệt sỹ, hộ nghèo… Tất cả không chỉ mang giá trị vật chất mà kèm theo là ý nghĩa về mặt tinh thần để vực dậy ý chí, tiếp thêm năng lượng tích cực, lan tỏa tinh thần yêu thương và đoàn kết trong cộng đồng.
Các đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Tĩnh luôn gần gũi, sâu sát, đồng hành với người dân, nhất là trong thiên tai, dịch bệnh, khắc phục hậu quả sự cố môi trường biển…
Các đại biểu Quốc hội tỉnh đã chủ động đề xuất, tham mưu cho tỉnh những định hướng chiến lược mang tầm dài hạn, như phát triển khu kinh tế ven biển Vũng Áng, nâng cấp hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, quy hoạch đô thị bền vững, chuyển đổi năng lượng và bảo vệ môi trường. Qua đó, Đoàn ĐBQH tỉnh đã góp phần hình thành một hành lang pháp lý và cơ chế thuận lợi để Hà Tĩnh thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Các thành viên trong Đoàn luôn tích cực tham gia nghiên cứu các đề tài khoa học cấp tỉnh và nhiều sáng kiến kinh nghiệm như: Nâng cao hiệu quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phát triển du lịch cộng đồng tại Hà Tĩnh; những vấn đề pháp lý về liên kết vùng trong phát triển bền vững du lịch; giải pháp marketing lãnh thổ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Hà Tĩnh; đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động tiếp xúc cử tri…Các kết quả nghiên cứu khoa học vừa có ý nghĩa lý luận vừa có giá trị thực tiễn cao, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị luận cứ khoa học, cung cấp tư liệu, thông tin tham khảo quan trọng trong hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng các văn bản pháp luật trên các lĩnh vực quản lý nhà nước liên quan và được các tổ chức, cá nhân có liên quan ứng dụng.
2.2. Hội đồng nhân dân
2.2.1. Quyết định nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc hội - an ninh sát đúng và kịp thời
Ban hành hàng nghìn nghị quyết cụ thể hoá các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước phù hợp với điều kiện thực tiễn địa phương. Nhiệm kỳ 2004 - 2011, ban hành 107 nghị quyết, trong đó nhiều nghị quyết có ảnh hưởng lâu dài như về xây dựng nông thôn mới, điều chỉnh địa giới hành chính, đầu tư các khu đô thị và KKT Vũng Áng.
Giai đoạn 2011 - 2016, ban hành 105 nghị quyết, trong đó nhiều chính sách có dấu ấn chiến lược và hiệu quả rõ rệt, góp phần tạo nền tảng cho: Chương trình xây dựng nông thôn mới phát triển mạnh; Kinh tế Hà Tĩnh bứt phá nhờ Khu kinh tế Vũng Áng; Hạ tầng, y tế, giáo dục được đầu tư đồng bộ; Bộ máy nhà nước bắt đầu chuyển sang tinh gọn, hiệu quả. Cụ thể: Nghị quyết số 53/2012/NQ-HĐND và các nghị quyết sửa đổi, bổ sung về hỗ trợ xi măng, cơ chế khuyến khích xã hội hóa, huy động sức dân xây dựng NTM, Cơ chế “làm trước - hỗ trợ sau”, “nhân dân làm - nhà nước hỗ trợ”, giúp Hà Tĩnh trở thành tỉnh đi đầu cả nước về xây dựng NTM. Đến cuối nhiệm kỳ, 26 xã đạt chuẩn NTM, diện mạo nông thôn đổi mới rõ nét, lòng dân đồng thuận cao…
Nhiệm kỳ 2016 - 2021, HĐND tỉnh đã ban hành 119 nghị quyết, gồm: 18 nghị quyết về tổ chức bộ máy; 61 nghị quyết về kinh tế - xã hội, tài chính - ngân sách; 11 nghị quyết quy phạm pháp luật; 29 nghị quyết về các vấn đề khác. Trong đó là những quyết định quan trọng như: quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch đầu tư công, ngân sách địa phương, chuyển đổi loại hình trường học, phát triển các khu kinh tế, cơ chế đặc thù cho vùng khó khăn, phát triển nông thôn mới… và đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực trọng điểm: Kinh tế tập thể, giáo dục, y tế, môi trường, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư, khai thác tài nguyên hiệu quả. Cụ thể như: Điều chỉnh quy hoạch Khu kinh tế Vũng Áng; Hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư cho các dự án lớn (Formosa, Nhiệt điện Vũng Áng 1-2…); Chính sách ưu đãi đầu tư tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp; Những Nghị quyết này đã góp phần hình thành trung tâm công nghiệp - cảng biển lớn của miền Trung, tạo đột phá cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Thông qua Đề án sáp nhập các đơn vị sự nghiệp, giảm chi thường xuyên từ ngân sách là cơ sở quan trọng để Hà Tĩnh triển khai mạnh mẽ chủ trương tinh giản biên chế, tự chủ đơn vị sự nghiệp công lập sau này…
2.2.2. Nâng cao chất lượng kỳ họp, đổi mới trong điều hành, quyết nghị
Tổ chức nhiều kỳ họp chất lượng với sự chuẩn bị chu đáo, đúng quy trình, cải tiến nội dung, tăng cường thảo luận tổ, chất vấn, phát biểu có trọng tâm. Nhiệm kỳ 2016 - 2021, HĐND tỉnh tổ chức 12 kỳ họp (8 kỳ họp thường lệ và 4 kỳ họp chuyên đề), duy trì đều đặn mỗi năm từ 2-3 kỳ họp. Hình thức “họp không giấy tờ” được thực hiện từ năm 2018, sử dụng phần mềm quản lý kỳ họp, biểu quyết điện tử, góp phần hiện đại hóa quy trình làm việc.
Chất lượng thảo luận tổ, chất vấn tại hội trường được nâng cao: tại mỗi kỳ họp có từ 35-50 lượt đại biểu phát biểu, nhiều nội dung chất vấn “trả lời đến cùng”, tạo chuyển biến tích cực trong công tác chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh.
Công khai, minh bạch hóa hoạt động HĐND thông qua truyền hình trực tiếp, tiếp công dân tại kỳ họp, đường dây nóng, truyền thông đại chúng… Gắn bó chặt chẽ giữa nội dung kỳ họp với ý kiến cử tri và yêu cầu thực tiễn địa phương.
2.2.3. Thực hiện tốt vai trò giám sát - phản biện - đồng hành phát triển
Triển khai hàng trăm cuộc giám sát chuyên đề, khảo sát thực tế, giải trình tại các kỳ họp, tập trung vào các lĩnh vực trọng yếu: đầu tư công, thu - chi ngân sách, y tế - giáo dục, cải cách hành chính, quản lý đất đai - tài nguyên…
Nhiều nội dung giám sát đã tạo chuyển biến rõ rệt như: nâng cao chất lượng giáo dục, cải thiện chất lượng bệnh viện công, khắc phục tồn tại trong quy hoạch sử dụng đất, tiến độ giải ngân vốn đầu tư…
Nội dung giám sát tập trung vào những lĩnh vực “nóng” như: đất đai, đầu tư công, cải cách hành chính, xử lý rác thải, y tế cơ sở, quản lý tài nguyên…
Các kiến nghị giám sát được UBND tỉnh tiếp thu, ban hành kế hoạch khắc phục, góp phần chấn chỉnh những tồn tại kéo dài.
2.2.4. Cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân
Tổ chức tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp rộng khắp, sâu sát cơ sở, tiếp nhận và xử lý hàng ngàn ý kiến, kiến nghị chính đáng. Các buổi tiếp xúc cử tri ngày càng được đổi mới về phương thức: tổ chức chuyên đề, tại cơ sở sản xuất, vùng xa... Các đại biểu đã phát huy vai trò, trách nhiệm, phản ánh kịp thời những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân vào diễn đàn HĐND, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương.
2.2.5. Tham gia xây dựng và củng cố chính quyền cơ sở
Thường xuyên rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy, củng cố hoạt động của HĐND các cấp, từng bước nâng cao chất lượng đại biểu và hiệu quả hoạt động của Thường trực, các ban HĐND.
Thực hiện kiện toàn các chức danh chủ chốt (Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, UBND, các Trưởng Ban HĐND) đúng quy trình, đảm bảo tiêu chuẩn, cơ cấu, chất lượng.
Tăng cường đào tạo, tập huấn kỹ năng cho đại biểu dân cử: giám sát, thẩm tra, phát biểu, phản biện…
Kỷ niệm 80 năm Ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội Việt Nam (06/01/1946 - 06/01/2026) là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ôn lại lịch sử hình thành và phát triển; khẳng định những thành tựu to lớn mà Quốc hội nước ta và của Đoàn Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân tỉnh nhà đã đạt được trong 80 năm qua. Kế thừa và phát huy truyền thống hào hùng của dân tộc; bài học kinh nghiệm; dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, toàn diện, kịp thời của Đảng, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan trong hệ thống chính trị, sự ủng hộ và giám sát của Nhân dân, các cơ quan dân cử sẽ tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả hoạt động, quyết tâm phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, góp phần xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011,T2,Tr. 292
[2] Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1993, T2, Tr. 263
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, T3, Tr. 553
[4] Khóa I (1946 -1949): Khóa II (1949-1959), Khóa III (1959-1962), Khóa IV (1962-1965), Khóa V (1965-1968), Khóa VI (1968-1971), Khóa VII (1971-1974).
[5] Của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được ban hành ngày 22 tháng 11 năm 1945, quy định về việc tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp
[6] Khóa VIII (1974-1977), Khóa IX (1977-1981), Khóa X 1981-1985), Khóa XI (1985-1989)
[7] Khóa XII (1989-1994, Khóa XIII (1994-1999), Khóa XIV (1999-2004), Khóa XV (2004-2011), Khóa XVI (2011-2016), Khóa XVII (2016-2021), Khóa XVIII (2021-2026)