Bia ghi danh tại Quốc Tử Giám Hà Nội
Tư liệu Hán tự trong các gia phả và di chỉ cổ thuộc dòng Pháp Độ công - con trai thứ của Trần Nguyên Hãn ghi rằng: “Pháp Độ công là quan Thiết chế Lễ tướng công tại bộ Lễ, là bậc hiền thần nhưng vì dòng dõi nhà Trần, lại là con trai của Trần Nguyên Hãn nên bị triều đình Lê Thánh Tông nghi kỵ, khiến ông phải hưu quan vào năm 1474 khi mới 51 tuổi, gia đình dời cư vào Thanh Hóa”.
Năm 1479 Pháp Độ công đưa con trai thứ 3 là Thiện Tính vào xã Thái Xá (Nghệ An). Với những cứ liệu này có thể thấy Pháp Độ công không những phải hưu quan sớm, mà còn phải tránh xa đất kinh thành, bèn dời cư vào Thanh Hóa - Nghệ An, và các con của ngài không thấy ai kế nghiệp làm quan. Giới nghiên cứu cho rằng, Pháp Độ công là con trai của Trần Nguyên Hãn sinh sống đầu tại Thanh Hóa, sau vào Nghệ An. Xét về góc độ tư liệu các dòng thuộc hậu duệ Trần Nguyên Hãn thì Bảo Tín là con trai thứ 4 của Pháp Độ công với người mẹ thứ.
Các nguồn sử liệu đăng khoa lục ghi nhận Trần Bảo Tín là người rất thông minh. Nguyên văn tư liệu của Lê Tung tại Văn miếu Quốc Tử Giám chép rằng: “Trần Bảo Tín 29 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ nhị danh (Bảng nhãn) khoa Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận 3 (1511) đời Lê Tương Dực”.
Khoa thi này, vua đích thân ra bài văn sách hỏi về đạo trị nước xưa nay. Văn bia đề danh còn ghi: “Lòng thánh đế lo xa, đã có sẵn quy hoạch, đối với những người thi đỗ trong bảng này đặc cách ban khen bạt dụng, đều bổ cho giữ các chức ở Hàn lâm viện và các chức khoa đài ở các bộ, ơn huệ rất dày, chế độ rất đủ. Đăng khoa thì có sách chép, đề danh thì có bia là cốt để lưu tiếng thơm trong sử sách, làm rạng rỡ sự nghiệp đến muôn đời”.
Trần Bảo Tín làm quan đến chức Lại bộ Tả thị lang, khi nhà Mạc lấy ngôi nhà Lê, ông ẩn cư ở núi Hành Sơn rồi mất. Nhà Lê trung hưng truy tặng ông chức Thượng thư, phong Phúc thần”.
“Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Năm Tân Mùi - 1511 tháng 3, thi Hội các sĩ nhân trong nước đến thi Đình, vua thân hành xem bài thi rồi định bậc cao thấp. Cho bọn Hoàng Nghĩa Phú, Trần Bảo Tín, Vũ Duy Chu 3 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ”.
Về hành trạng của Bảng nhãn Trần Bảo Tín, một số nguồn sử liệu khác ghi rằng, ông là người mẫn cán, trung thực, thẳng thắn. Năm 1527 nhà Mạc chiếm ngôi vua Lê, ông bất hợp tác với nhà Mạc nên bỏ kinh thành về quê ở ẩn.
Tại đây ông lập chiến lũy không cho nhà Mạc mở rộng biên ải xuống phía Nam, tránh được nạn phu phen tạp dịch, nhân dân được sống yên bình.
Để tránh đói nghèo, Trần Bảo Tín cùng với dân địa phương lập trang trại khai khẩn ruộng hoang, đắp đường mở chợ buôn bán, mở trường dạy học, mở nơi chữa bệnh.
Lễ Động thổ tôn tạo Lăng mộ Trần Bảo Tín năm 2017 Tại núi Lần Sơn trong hệ thống 99 đỉnh núi Hồng Lĩnh
Con cháu Bảng nhãn Trần Bảo Tín sau này nhiều người trở thành các nhà khoa bảng, tướng quân được phong tước, phong hầu, như: Trần Văn Đức, Văn Bân, Công Vinh, Công Hoa…
Khi Trần Bảo Tín qua đời dân làng đã an táng và lập đền thờ ông tại núi Hồng Lĩnh, phong ông là Thành hoàng làng, các triều vua cũng phong ông là “Bảo quốc Trung trinh Đại phu bộ Lại Thượng thư Trần tướng công”.
Nghỉ chân bên Lăng Thánh Bảng
Tương truyền nơi đặt mộ Trần Bảo Tín là một huyệt đất thiêng hiếm có. Sách “Đại Nam thực lục” chép về Lận Sơn trong cuộc chiến năm 1660, quân hai nhà Trịnh - Nguyễn đánh nhau: “Trịnh Căn (chúa) họp các tướng để hỏi chước. Trần Công Bách đáp rằng: Lận Sơn là nơi tất phải tranh lấy. Hễ chiếm được Lận Sơn trước thì thắng…”.
Tại di tích Bảng nhãn Trần Bảo Tín, trong đền trước đây còn có bài thờ Hán tự đặt trên thượng điện, được lưu truyền và sử sách ghi chép:
Cù Sơn hữu nhất huyệt
Tiền di Lam giang vi án
Hậu hữu Nga mi vi chẩn
Long hổ hữu tinh, quần sơn vọng bái.
